Ta học được cách yêu từ "Nhân loại - Một lịch sử tràn đầy hy vọng"



*Cánh báo: bài viết không chỉ review sách mà còn mở rộng một số vấn đề liên quan, nên bài viết sẽ hơi dài về mặt dung lượng. Độc giả cân nhắc trước khi đọc. Tác giả xin cảm ơn 💕❤️
(Bài viết này tui gửi đi thi Đại sứ văn hoá đọc 2025, cấp thành phố mà không có giải các bác ạ. Giờ Hà Nội trao giải rồi nên tôi mới đăng lên mạng xã hội ý hihi)
_____________________________
Gần đây, tôi được biết rằng lượng bom mà không quân Hoa Kỳ thả xuống Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1972 nhiều gấp ba lần số bom mà Hoa Kỳ gieo rắc trong thế chiến thứ II - một cuộc chiến với sự tàn phá khủng khiếp và nặng nề nhất trong lịch sử nhân loại. Điều gì đã khiến một dân tộc kiên cường đến vậy? Điều gì đã khiến một dân tộc trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, gần một thế kỷ sống chung với thực dân, 9 năm kháng chiến chống Pháp, 21 năm kháng chiến chống Mỹ, sau năm 75 non sông liền về một dải vẫn trải qua các cuộc chiến tiếp nữa…có thể can trường đứng dậy, đi lên từ một đất nước non trẻ thành một nhà nước hiện đại văn minh tiên tiến, để vươn mình hội nhập và phát triển với thế giới như hôm nay?
     Chúng ta không có vũ khí hiện đại, cũng chẳng có lực lượng vũ trang hùng hậu, đã từng bị quốc tế cô lập. Ấy vậy mà vượt lên tất cả những thách thức ấy, phải chăng chính tình người, lòng yêu người – nhân ái đã đưa dân tộc chúng ta chạm đến tự do? Phải chăng nhân tính đã đang và sẽ là điểm chấm phá nhiệm màu để hoàn thiện hơn bức tranh tươi đẹp ấy của dân tộc? Và phải chăng chúng ta hôm nay vẫn luôn không ngừng học hỏi, trau dồi đức tính tốt đẹp của cha ông ngày trước, khẳng định vai trò làm chủ xây dựng một đất nước ngày càng đi lên? Làm rõ câu trả lời cho những câu hỏi ấy, tôi chưa biết câu trả lời nào thích hợp hơn “Nhân loại – một lịch sử đầy hy vọng” của Rutger Bregman.
     Trước tiên, luận điểm lớn của “Nhân loại”  mà Rutger Bregman muốn đào sâu nghiên cứu đó là: bản chất của con người, và sự tử tế thiện lương bên trong bản chất ấy. Theo anh, khía cạnh tốt đẹp ở bản chất con người trong suốt chiều dài lịch sử đều bị phủ nhận và lãng quên.
     Sự thiện lương, tử tế trong bản chất con người ư? Đó là “Một ý tưởng không  ngừng bị các tôn giáo và hệ tư tưởng phủ nhận, vùi dập, bị giới truyền thông phớt lờ và bị gạch bỏ khỏi biên niên sử của loài người.” (Trang 22). Tại sao lại như vậy? Trong suốt chiều dài năm tháng, quan điểm luôn chiếm thế thượng phong trong các lĩnh vực nghiên cứu tâm lý xã hội, tâm lý học, triết học đương đại,…luôn là: con người là giống loài ích kỷ, xấu xa, chỉ biết tư lợi và nghĩ cho bản thân mình. Từ các nhà sử học thời Hy Lạp cổ đại, đến các nhà tư tưởng ở Phương Tây thời trung đại đều đồng tình với quan điểm trên. Ngày nay, chúng ta cũng thấy tin tức báo chí về các vụ bắt cóc tống tiền, hành hạ đánh đập, tham nhũng trốn thuế lan tràn ở khắp nơi.
     Trong Kitô giáo, một nhãn quan tiêu cực được truyền bá từ ngay những ngày đầu hình thành đó là: tất cả mọi người đều mang tội. Giáo lý này được thánh Augustine (345 – 430) viết: “Không ai hoàn toàn sạch tội cả, cho dù là một đứa trẻ sơ sinh”
      Tác giả đưa ra thêm nhiều dẫn chứng: Machiavelli – cha đẻ của ngành khoa học chính trị kết luận: “Có thể nói đặc điểm chung của mọi người là vô ơn, hay thay đổi, đạo đức giả”. John Adams, nhà sáng lập nền dân chủ viết: “Mọi người đều có thể trở thành những tên bạo chúa nếu họ có cơ hội”. Và Sigmund Freud, cha đẻ của ngành tâm lý học hiện đại thì nói: “Chúng ta là hâu duệ của vô số những kẻ sát nhân”.
    Trong văn chương, cuốn tiểu thuyết “Chúa Ruồi” của William Goalding kể về những cậu bé rơi máy bay và may mắn sống sót, phải cố gắng cùng nhau sinh tồn trên một hòn đảo mà không có bất kỳ một sự giúp đỡ nào từ bên ngoài. Cuối cùng khi có mâu thuẫn, xung đột lên đến cực điểm, đã có ba cậu bé phải chết. Khi được các sĩ quan thuỷ quân giải cứu, Ralp – thủ lĩnh nhóm các cậu bé đã bật khóc, tiếng khóc ấy không chỉ là tiếng khóc của sự giã từ thơ ngây mà còn là tiếng khóc trước những mặt tăm tối trong tâm hồn con người.
Cuốn tiểu thuyết được gây tiếng vang mạnh mẽ, được dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau và giúp William Golding giành giải Nobel văn học. Bằng lối sáng tác giả tưởng, William Golding miểu tả tâm hồn con người bằng cách từ từ bóc tách tầng tâng lớp lớp trong nhân cách của con người. Ông lấy những đứa trẻ làm trung tâm, khi được tự do tự tại, vô pháp vô thiên hay bị dồn đến đường cùng chúng sẽ bộc lộ bản chất thật sự của mình. Cuốn tiểu thuyết và cách nó được đón nhận trên khắp thế giới cũng là một minh chứng cho thấy độc giả khắp nơi tiếp nhận và đồng tình với tư tưởng của William Golding.
    Đứng trước những điều tưởng như đã thành định lý xác đáng, Rutger Bregman lại băn khoăn, trăn trở: đó có phải là sự thật thực sự? Chân lý là gì? Và cố gắng tìm hiểu: tại sao con người lại hình dung chính mình là loài xấu xa? Điều gì khiến chúng ta tin rằng phẩm cách của mình là tồi tệ?
     Tác giả đưa ra nhiều dẫn chứng, sự kiện, những câu chuyện đã xảy ra để phân tích, mổ sẻ tại sao mọi người đều cho rằng phẩm chất tiêu biểu nhất trong một cá nhân hay xã hội luôn là phẩm chất tiêu cực, và rồi từ đó con người không còn tin tưởng nhau, mất đi sự kết nối, thấu cảm và sẻ chia. Trong đó, ta có thể  nói đến một số dẫn chứng tiêu biểu như:
- Thí nghiệm dưới tầng hầm đại học Stanford và kết quả nên được xem là “đương nhiên” khi con người ta khoác lên bộ đồng phục cai ngục
- Một hòn đảo bí ẩn man rợ tưởng như đã được khám phá hết nhưng ẩn đằng sau là sự thật lạc quan vẫn chưa được làm sáng tỏ, cũng có thể là bị cố tính giấu kín.
- Một thí nghiệm cùng máy sốc điện được tung hô nhưng thực chất chỉ là một màn kịch.
     Rutger Bregman chỉ ra, cái ác mà chúng ta quy chụp cho tất cả mọi người xuất phát từ các yếu tố:
1, Con người thực hiên cái ác vì cho rằng mình là một phần của tập thể, mình đang đóng góp chút gì đó có ích, rằng việc mình làm là cần thiết. Như các binh lính Đức quốc xã trong Thế chiến thứ II, hay các đối tượng trong thí nghiệm máy sốc điện của Stanley Milgram. Khi ấy cái xấu lại núp sau vỏ bọc của cá thiện, lý tưởng và chính nghĩa.
2, Cái ác bị thúc ép bởi những thế lực cầm quyền độc tài và tham muốn nắm quyền một cách mạnh mẽ.
3, Hoàn cảnh và yếu tố môi trường cũng có tác động lên hành vi của con người.
     Tác giả đưa ra các nguồn dẫn chứng thuyết phục, những câu chuyện và nhân chứng có thật để phân tích, phản biện, tìm ra các kẽ hở trong các thí nghiệm, học thuyết và kết luận của các tiền bối đi trước cũng như làm nổi bật và củng cố luận điểm anh đang theo đuổi: hầu hết tất cả mọi người, từ trong sâu thẳm, đều rất thiện lương.
     Qua từng trang sách, độc giả hiểu ra: bản chất xấu xa mà nhân loại khẳng định chắc như đinh đóng cột ấy, hoá ra lại là một màn che đạy sự thật của các nhà cầm quyền độc tài, những vở kịch của các nhà khoa học tự biến mình thành nhà đạo diễn tài ba, những kẻ muốn lợi dụng tâm lý xã hội về một khái niệm đã ra đời từ lâu (bản chất con người) để thu hút danh tiếng, sự chú ý của giới truyền thông, chứ không phải nghiên cứu tìm tòi ra điều mới mẻ gì.
Và công chúng, qua những tin tức báo chí, những thí nghiệm không công bố tất cả các kết quả, qua những lời đồn thổi, qua những định kiến về cái ác với những quan điểm cổ hủ, đã tin và tìm cách tin rằng loài người là giống loài ác ôn, xấu xa, ích kỷ, bất chấp rất nhiều bằng chứng chứng minh điều ngược lại, và những bằng chứng ấy cũng đang ngày càng nhiều hơn.
     Cuốn tiểu thuyết “Chúa Ruồi” của William Golding được nhiều người biết đến, ca tụng là đã góp phần vạch rõ sự cằn cỗi sâu trong tâm hồn con người khi bị dồn đến đường cùng. Thế nhưng lại ít ai biết đến một câu chuyện là Chúa Ruồi đời thực đã diễn ra như thế nào. Sáu cậu bé ra biển câu cá và gặp bão rồi dạt vào một hòn đảo tên Ata nằm trên Thái Bình Dương. Sáu người họ kẹt lại ở đó hơn một năm, và khi được giải cứu, tất cả đều khoẻ mạnh, hòn đảo được xây dựng như một hệ sinh thái với các điều kiện sống cơ bản. Một người  trong số họ còn từng bị gãy chân, vậy mà sau khi được cứu, cậu bé hoàn toàn lành lặn. Họ cũng thay phiên nhau giữ lửa không bao giờ tắt. Họ đã làm như thế nào ư? Đoàn kết. Tin tưởng. Và dựa vào nhau.
      Cơn bão Katrina đổ bộ vào bang New Orleans ngày 29/8/2005 đã gây ra nhiều thiệt hại về người và của. Giới truyền thông, khắp các mặt báo lớn đưa tin rằng thành phố đang rất hỗn loạn, đã xảy ra cướp bóc, có tiếng nổ súng giết người, tinh thần người dân suy sụp… Nhưng thực tế không phải vậy. Khoảng 25.000 người được đưa đi tránh bão tập trung. Họ cố gắng trấn an động viên nhau. Các thanh niên trẻ tuổi lập ra nhóm cứu hộ, đi tìm thức ăn nước uống và thuốc men rồi phân phát tới những người cần chúng. Phụ nữ, người già và trẻ em được ưu tiên hơn hết.
     Rutger Berman viết: “Tóm lại cơn bão Katrina không khiến cho New Orleans rơi vào tình trạng hỗn loạn, cướp bóc hay vô chính phủ. Hơn bao giờ hết, cả thành phố tràn ngập tinh thần can trường, sự sẻ chia và lòng nhân ái”
     “Chính khi khốn cùng nhất – bom rơi đạn lạc hoặc thiên tai ập đến – con người lại trở về bản ngã vốn đỗi rất tốt đẹp của mình.”
       Khía cạnh tưởng như bình thường, hiển nhiên trong tâm hồn con người, lòng nhân ái, qua ngòi bút chắc chắn của Rutger Bregman không hề uỷ mị , sáo rỗng mà ngược lại, rất thấu tình đạt lý, đánh thẳng vào trọng tâm vấn đề, và vào cả tâm thức người đọc, khiến cho, độc giả phải chững lại để suy ngẫm và khắc ghi. Với bố cục rõ ràng năm phần: phần một – đặt ra vấn đề, phần hai – nêu lên thực trạng về sự hiểu sai của hầu hết mọi người về bản chất con người, phần ba – nguyên nhân khiến người tốt bị tha hoá, phần bốn – một hướng đi, một giải pháp, và phần năm – lịch sử đã tạo nên hy vọng cho tương lai, cuốn sách được trình bày một cách đầy đủ, rõ ràng chặt chẽ, thực tế; đi từ thực trạng đẩy lên cao trào và cuối cùng mở ra những niềm tin, hy vọng mới.
     “Nhân loại – một lịch sử tràn đầy hy vọng” của Rutger Bregman đã có một ý tưởng mà nhiều cuốn sách đã bỏ qua, ý tưởng ấy được cụ thể hoá dần qua một lối viết tiến bộ, chặt chẽ. Gấp lại trang sách cuối cùng, độc giả sẽ có thêm nhiều tri thức về các lĩnh vực tưởng như khô khan nhưng thật ra rất dễ hiểu. Và tất cả những tri thức ấy làm sáng lên một điều cuối cùng chúng ta cần suy ngẫm: nhânái: con người lòng yêu.
     “Nhân loại” đã đưa ra các số liệu về chiến tranh, giết chóc, những sự tàn ác từng xảy đến với loài người. Đọc những dòng ấy, hẳn độc giả sẽ dừng lại suy ngẫm rằng: xung quanh mình, trên thế giới này đã từng có những kẻ vốn bình thường như bao người khác, vốn chỉ là một con người với bản tính thiện lương lại bị quyền lực, hoàn cảnh hay sự ràng buộc chi phối để rồi lại đi gây bao đau thương cho người khác. Vậy thì, khi đã đi qua những điều đau thương ấy, và có những nhận thức đúng đắn về những sự nghiệt ngã ấy, mỗi người chúng ta ngày nay hãy mở rộng tấm lòng mình ra một chút, bao dung hơn một chút, thấu hiểu hơn một chút để lòng nhân ái có thể lan toả thêm một chút.
     Rõ ràng, “Nhân loại” đã tác động một cách sâu sắc đến tâm trí độc giả và cho ta nhận thức mới mẻ đúng đắn. Đi từ trang sách tới thực tế, chúng ta đặt ra nghi vấn: xã hội ngày nay có thật sự tồn tại một tình cảm nguyên sơ đẹp đẽ giữa người với người? Hay tình cảm ấy đang ngày càng bị tạp chất làm cho vẩn đục? Giữa những lừa lọc, cám dỗ, trộm cắp, toan tính vụ lợi như hôm nay, chỗ đứng nào còn xót lại cho tình yêu thương? Người ta tỏ ra yêu thương người khác cốt cũng chỉ vì chính bản thân mình. Phải chăng chúng ta đang làm mai một đi lòng nhân ái có từ ngàn xưa của dân tộc?
     Không!
     Tại sao thế? Tôi nhớ đến, vào những ngày tháng đói khổ của đất nước, nhà văn Nam Cao đã viết nên một truyện ngắn mà chúng ta vẫn còn trân trọng ý nghĩa của nó mỗi khi nhắc về, một truyện ngắn sẽ mở ra hy vọng cho những người đau khổ nhất – Chí Phèo. Bởi lẽ, nếu tình yêu thương giữa người với người đang ngày càng mai một, thì làm sao một bát cháo hành lại khiến cho Chí Phèo xúc động đến thế? Làm sao mà trong những ngày sống cùng Thị Nở, Chí Phèo lại thực sự “Người” hơn cả phần đời của mình? Làm sao mà, khi đọc đến dòng cuối cùng của truyện ngắn, độc giả lại rơi nước mắt vì xót thương cho một kiếp người?
     Ta nhận ra, giữa thời đại mới hôm nay, tình yêu mà một ngườu dành cho một người khác vẫn đang diễn ra ngay trong cuộc sống bình dị thường ngày. Tình yêu ấy của đất nước chúng ta rõ nét, đẹp đẽ, đã là một phần giúp cha ông ta đi qua đổ nát và đau thương, và tình yêu ấy vẫn đang hiện hữu hôm nay, lớn dần theo từng bước phát triển của dân tộc.
Tiếp nối tình yêu ấy, nhất là sau khi đọc xong “Nhân loại – một lịch sử tràn đầy hy vọng” của Rutger Bregman tôi càng hiểu hơn về sứ mệnh thiêng liêng của tình yêu người – lòng thương người, đó là khơi lên mong muốn hành động. Khi một người mang trong mình một tình yêu sâu sắc với đồng bào, với dân tộc, thậm chí với cả dân tộc khác, khi tình yêu ấy lớn đến nỗi khiến cho người đó mỗi khi nghĩ về những đau thương, những mất mát sẽ bật khóc vì thương cảm xót xa, người ta sẽ dâng lên một mong muốn hành động, một khát khao cống hiến, tạo ra giá trị để tỏ lòng biết ơn với quá khứ, cũng như xây dựng hiện tại và hướng đến tương lai.
     “Nhân loại” của Rutger Bregman và bản thân anh là một sự sáng tạo “bơi ngược dòng”
       Trong cuốn tiểu thuyết “Suối nguồn” nhà văn Ayn Rand có viết: “Loài người đã được dạy dỗ rằng đồng tình với người khác là một đức hạnh. Nhưng người sáng tạo lại luôn bất đồng. Loài người đã được dạy rằng bơi theo dòng nước là  một đức hạnh. Nhưng người sáng tạo lại luôn bơi ngược dòng. Loài người được dạy dỗ rằng đứng tụ tập bên nhau là một đức hạnh. Nhưng người sáng tạo lại luôn là người đứng một mình”
     Nếu “Nhân loại” là biểu hiện của những tri thức được nhìn nhận dưới một góc nhìn tiến bộ thì tác giả của nó - Rutger Bregman là biểu hiện của những người mang tinh thần không cam chịu cái cũ, cái như trở thành chân lý, không đi theo phần đông mọi người, không đi theo những giá trị sẵn có mà anh đặt ra câu hỏi cố gắng tìm kiếm câu trả lời, một giá trị đúng đắn thật sự cuối cùng. Đó là một sự can đảm để “bất đồng” “bơi ngược dòng” và “đứng một mình”.
     Tinh thần ấy của Rutger Bregman cũng là một yêu cầu phù hợp trong xã hội hiện nay. Giữa thời kỳ phát triển, hội nhập của dân tộc, người trẻ, ai cũng muốn tìm cách để khẳng định giá trị bản thân, nhưng nếu chỉ đi theo những lối mòn đi theo những điều sẵn có thì sẽ sớm bị bão hoà. Để không bị đào thải, để phát triển bản thân từng ngày, và để góp sức nhỏ làm giàu đẹp cho nước nhà, ta cũng phải biết đổi mới để thích nghi với hoàn cảnh đầy biến động, làm mới tư duy với một tinh thần thật sự muốn học hỏi và tìm ra những phương cách mới khi đối diện với những vấn đề cũ.
    Gấp lại cuốn sách, hai điều sẽ còn đọng lại trong tôi: tình yêu sự bác ái và sự sáng tạo dám bơi ngược dòng. Mà hai điều ấy có thể kết lại bằng hai nhận định. Nhận định đầu tiên về tình yêu giữa con người là những dòng mà Nelson Mandela – người đã phải ngồi tù suốt hơn 20 năm vì đấu tranh cho quyền  của người da màu, viết trong “Đường dài tới tự do”:
     “Tôi biết rằng sâu thẳm trái tim mỗi con người luôn tồn tại sự khoan dung và lòng nhân hậu. Không ai sinh ra đã ghét bỏ người khác vì màu da, vì tầng lớp xã hội, hay vì tôn giáo của họ. Để biết ghét, con người cũng cần phải học. Và nếu con người có thể học cách căm ghét, ắt hẳn con người có thể học cách yêu thươngLòng tốt của con người là ngọn lửa, đôi khi nó có thể ẩn khuất đâu đó, nhưng sẽ không bao giờ mất đi”.
     Nhận định thứ hai về sự đổi mới của nhà văn Bernard Shaw – người đạt giải Nobel văn học năm 1925: “Một người lý trí là người thay đổi bản thân để thích nghi với môi trường, chỉ có những người không lý trí mới muốn đi thay đổi môi trường để nó thích hợp với mình. Nhưng lịch sử lại thường được tạo nên bởi những người ở vế sau”.
Tháng 6/2025

Nhận xét